Công tác Lý luận chính trị
Thực chất của vấn đề dân chủ(*)
- Được đăng: Thứ sáu, 27 Tháng 4 2018 05:06
- Lượt xem: 14991
(TGAG)- Dân chủ là một phạm trù chính trị - xã hội xuất hiện khi có sự khác biệt về giai cấp và sự hình thành nhà nước. Lịch sử nhân loại đã trải qua nền dân chủ của chủ nô trong hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ (điển hình là dân chủ của chủ nô ở thành bang Athènne). Cách mạng Tư sản thành công, chế độ quân chủ bị xóa bỏ, nền dân chủ tư sản tiến bộ hơn đã ra đời; tiếp theo sẽ là một bước phát triển cao hơn nữa: Đó là nền dân chủ do Cách mạng XHCN mang lại. Năm 1848, trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” Mác tổng kết: “Giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử. Bất cứ ở chỗ nào mà giai cấp tư sản chiếm được chinh quyền thì nó đạp đổ những quan hệ phong kiến, gia trưởng…”(1). “Tất cả những gì mang tính đẳng cấp và trì trệ đều tiêu tan như mây khói” (2).
Khác với xã hội phong kiến với nhiều tầng lớp, đẳng cấp. Xã hội tư bản chủ nghĩa đã: “… đơn giản hóa những đối kháng giai cấp. Xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản”(3). Các giai cấp đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà trước hết là sự phát triển nhanh chóng của đại công nghiệp. Giai cấp công nhân thì trái lại. Nó không ngừng lớn mạnh, bởi vì nó “là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”(4). Nếu đại công nghiệp là thứ vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư sản. Nhưng giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí để tiêu diệt mình; hơn thế nữa nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy, đó là những người vô sản (5).
Đặc điểm của phong trào vô sản: “là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số. Giai cấp vô sản, tầng lớp ở bên dưới nhất của xã hội hiện tại, không thể vùng dậy, vươn mình lên nếu không làm nổ tung toàn bộ cái thượng tầng kiến trúc bao gồm những tầng lớp cấu thành xã hội quan phương”(6).
Mác dự báo một cách đặc sắc: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”(7). Con người sẽ đi tới “vương quốc tự do”. Đó là một điều chắc chắn! Nhưng đó sẽ là xã hội của tương lai. Nó sẽ và chỉ xuất hiện: “khi mà lao động trở thành… một nhu cầu bậc nhất của đời sống; khi mà cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân, sức sản xuất của họ cũng ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào, - chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản”(8).
Năm 1875, Mác đã lý giải trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô-ta” về lý do mà con người chưa thể bước ngay vào “vương quốc tự do”, Mác viết: “Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra”(9).
Cách mạng vô sản là một quá trình lâu dài, gian khổ. Trong đó, “bước thứ nhất” cực kỳ quan trọng: “… là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”(10). Phải: “tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”(11).
Kế thừa quan điểm nói trên, Lê-nin đã giải thích: “Giai cấp vô sản cần có chính quyền nhà nước, cần có tổ chức sức mạnh tập trung, cần có tổ chức bạo lực để trấn áp sự phản kháng của bọn bóc lột và lãnh đạo quảng đại quần chúng nhân dân - nông dân, tiểu tư sản, nửa vô sản - trong công cuộc "tổ chức" nền kinh tế xã hội chủ nghĩa”(12). Ông còn nhấn mạnh rằng Mác có một định nghĩa tuyệt hay về nhà nước. Mác viết: "Nhà nước, tức là giai cấp vô sản được tổ chức thành giai cấp thống trị"(13). Lê-nin so sánh: “Các giai cấp bóc lột cần đến quyền thống trị chính trị để duy trì sự bóc lột, nghĩa là để bảo vệ quyền lợi ích kỷ của một thiểu số rất nhỏ bé, chống lại tuyệt đại đa số nhân dân. Các giai cấp bị bóc lột cần đến quyền thống trị chính trị để thủ tiêu hoàn toàn mọi sự bóc lột, nghĩa là để bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân chống lại thiểu số rất nhỏ những chủ nô hiện đại, tức là bọn địa chủ và bọn tư bản” (14).
Khi viết tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, Lê-nin khẳng định: Vấn đề Nhà nước bao giờ cũng là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Và đúng như Mác đã tổng kết cuộc cách mạng Pháp 1848 - 1851 trong tác phẩm Ngày mười tám tháng Sương mù của Lui Bô-na-pác: Các chính Đảng lần lượt nối gót nhau đấu tranh giành chính quyền, đều coi việc đoạt lấy tòa lâu đài Nhà nước đồ sộ kia là chiến lợi phẩm chủ yếu của kẻ chiến thắng. Nhưng khi nghiên cứu về nhà nước, nhất là vấn đề nhà nước “tiêu vong”, nhà nước kiểu mới của nhân dân lao động chúng ta phải hết sức chú ý về tính phức tạp của nó. Nó phức tạp đến mức mà theo Lê-nin 10.000 nghe hay đọc về nó thì có đến 9.990 người không nhớ, không biết. Và trong số 10 người còn lại thì chắc chắn có đến 9 người không hiểu (15).
Như đã nói ở trên, tại “bước thứ nhất” của cách mạng vô sản, từ thân phận bị áp bức, bóc lột, giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải đấu tranh “giành lấy dân chủ” mà trước kia chỉ thuộc về giai cấp tư sản, chủ yếu của tư sản. Đến khi cách mạng XHCN thắng lợi: Mọi người được giải phóng và có được quyền bình đẳng với địa vị ngang nhau. Dân chủ đã thuộc về đa số. Nhưng “… ở đây, về nguyên tắc, cái quyền ngang nhau cũng vẫn là cái quyền tư sản”(16). Nó vẫn chưa ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản (là pháp quyền xác nhận bất bình đẳng trong thực tế). Nó vẫn: “… dùng cùng một thước đo như nhau; song những cá nhân không ngang nhau”(16).
Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô-ta”, Mác đã phê phán Lát-xan về quan niệm coi nhà nước tư sản là “nhà nước siêu giai cấp” có thể biến thành “nhà nước nhân dân tự do” cùng với cái gọi là “phân phối công bằng”… Mác đã chứng minh tính chất “bình đẳng” nhưng “không ngang nhau” trong vấn đề tưởng như rất bình đẳng và công bằng, đó là vấn đề “phân phối theo lao động”.
Mác đã phân tích cụ thể là khi nhân dân lao động giành được chính quyền và khi có điều kiện thực hiện phân phối theo lao động, có nghĩa là mỗi người lao động có số lượng, chất lượng lao động ngang nhau thì tiền lương như nhau. Thoạt nhìn đó là nguyên tắc phân phối công bằng. Nhưng thực chất lại không công bằng. Sở dĩ như thế là do nó thực hiện bình đẳng trên tiền đề rất không bình đẳng, không công bằng: Mỗi người lao động có thể lực và trí lực không như nhau, hoàn cảnh gia đình (số lượng con cái…) không như nhau. Kết quả là: Thụ hưởng không ngang nhau. “Quyền ngang nhau ấy là một quyền không ngang nhau đối với một lao động không ngang nhau”(16).
Liên quan đến vấn đề này, Ăng-ghen cho đó là: “… một sự bất bình đẳng mà người ta có thể rút xuống mức tối thiểu, chứ không thể làm mất hẳn được… Quan niệm về xã hội chủ nghĩa như giang sơn của bình đẳng, là một quan niệm phiến diện…”(17). Quan trọng hơn, Mác còn chỉ ra nguyên nhân của hạn chế đó. Người viết: “… đó là những thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau những cơn đau đẻ dài. Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”(18); Lê-nin đã bổ sung, Người viết: “giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản chưa thể thực hiện được công bằng và bình đẳng: về mặt của cải, thì vẫn còn chênh lệch, mà những chênh lệch ấy là bất công” (19).
Đây là những kết luận vô cùng khoa học, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Thực tế, tất cả các nước XHCN đều phạm sai lầm trong vấn đề này. Tất cả đều đã thiết kế nhiều chủ trương, chính sách “ở một mức cao hơn” chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế cho phép. Vì muốn nhanh chóng có công bằng; chúng ta luôn muốn ai cũng có việc làm bằng cách bố trí nhiều người cho công việc chỉ cần một người! Kết quả: Ai cũng có việc làm, nhưng không ai làm việc đàng hoàng! Ai cũng có tiền lương, nhưng lương lại không đủ sống! Tiền lương không đủ sống nhưng mọi người lại tranh nhau vào khu vực “không đủ sống” vv…
Như vậy, cần hiểu đúng vấn đề dân chủ mà trước nhất là nền dân chủ tư sản. Lê-nin viết: “Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của nhà nước. Cho nên, cũng như mọi nhà nước, chế độ dân chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta. Một mặt thì như thế. Nhưng mặt khác chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận quyền bình đẳng giữa những công dân, thừa nhận cho mọi người được quyền ngang nhau trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà nước. Do đó, đến một trình độ phát triển nào đó, chế độ dân chủ trước hết đoàn kết được giai cấp vô sản, giai cấp cách mạng chống chủ nghĩa tư bản, và khiến cho giai cấp vô sản có thể phá tan, đập vụn, quét sạch khỏi mặt đất bộ máy nhà nước tư sản”(20). Lê-nin đã tổng kết: “Tất cả lý luận của Mác là một sự áp dụng học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức triệt để nhất, đầy đủ nhất, chín chắn nhất và có nội dung phong phú nhất, vào chủ nghĩa tư bản hiện đại”(21). Người còn nói: “…tư tưởng cơ bản như sợi chỉ đỏ xuyên qua tất cả các tác phẩm của Mác, tư tưởng đó là: chế độ cộng hòa dân chủ là con đường ngắn nhất đi đến chuyên chính vô sản” (22).
Chính vì thế, Lê-nin đã đánh giá: “Chế độ dân chủ (ý nói dân chủ tư sản) có một ý nghĩa lớn lao trong cuộc đấu tranh tự giải phóng của giai cấp công nhân chống bọn tư bản. Nhưng chế độ dân chủ hoàn toàn không phải là một giới hạn không thể vượt được, nó chỉ là một giai đoạn trên con đường từ chế độ phong kiến đến chủ nghĩa tư bản và từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa cộng sản”(23). Không được hạ thấp tính ưu việt của nền dân chủ tư sản. Phải nhận thức đầy đủ “vai trò hết sức cách mạng của giai cấp tư sản”. Nhưng nói đến dân chủ tư sản cũng cần hiểu rõ nó là: “Dân chủ cho một thiểu số rất nhỏ”(24); “một thứ dân chủ cắt xén, khốn khổ, giả dối”; nó “gạt bỏ người nghèo ra ngoài chính trị, không cho họ tham gia tích cực vào chế độ dân chủ”(24)… Nhưng đây là sự “gạt bỏ” rất tinh vi. Mác nói một cách châm biếm: “… người ta cho phép những người bị áp bức, cứ mấy năm một lần, lại được quyết định xem trong số đại biểu của giai cấp áp bức, người nào sẽ thay mặt họ và sẽ chà đạp lên họ ở nghị viện”(24)…
Mặt khác, cùng với đấu tranh chống chủ nghĩa giáo điều “coi thường những giá trị của CNTB”. Hiện nay cũng phải đề phòng và kiên quyết chống thứ “giáo điều mới”. Bởi nó luôn thổi phồng các giá trị của phương Tây đến mức “sùng bái”... Cần ghi nhớ nhận xét sau đây của Lê-nin: “Xã hội tư bản chủ nghĩa, xét trong những điều kiện phát triển thuận lợi nhất của nó, đem lại cho ta một chế độ dân chủ ít nhiều đầy đủ trong chế độ cộng hòa dân chủ. Nhưng chế độ dân chủ ấy bao giờ cũng bị bó trong khuôn khổ chật hẹp của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa và do đó, thực ra, nó luôn luôn là một chế độ dân chủ đối với một thiểu số, vẫn chỉ là một chế độ dân chủ đối với riêng những giai cấp có của, đối với riêng bọn giàu có mà thôi. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, tự do luôn luôn vẫn gần giống như tự do trong các nước cộng hòa Hy-lạp thời cổ: một thứ tự do cho chủ nô. Những người nô lệ làm thuê ngày nay, do sự bóc lột tư bản chủ nghĩa, nên bị cảnh thiếu thốn đói khổ đè nặng đến nỗi "không thiết gì đến dân chủ", "không thiết gì đến chính trị", và đến nỗi… đa số nhân dân đều bị gạt ra ngoài sinh hoạt chính trị - xã hội(25).
Tóm lại, điểm mấu chốt ở đây là phải nhận thức đúng tính chất lịch sử của phạm trù dân chủ. Mối quan hệ giữa “tự do” và “dân chủ”, giữa “dân chủ” và “bình đẳng”. Bởi như Lê-nin nhận xét: “Thường thường người ta đồng nhất khái niệm "tự do" và "dân chủ", và thường dùng thay thế cho nhau. Những người mác-xít tầm thường (đứng đầu là Cau-xky, Plê-kha-nốp và phe lũ) rất thường hay lập luận đúng như vậy. Thực ra dân chủ loại trừ tự do. Biện chứng (quá trình) của sự phát triển là: từ chuyên chế đến dân chủ tư sản; từ dân chủ tư sản đến dân chủ vô sản; từ dân chủ vô sản đến không còn dân chủ nữa”(26). Người còn nói:“Dân chủ nghĩa là bình đẳng. Rõ ràng là cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản để giành quyền bình đẳng và thực hiện khẩu hiệu bình đẳng có một ý nghĩa rất lớn, miễn là phải hiểu bình đẳng cho đúng, hiểu theo nghĩa xóa bỏ giai cấp. Nhưng dân chủ chỉ có nghĩa là bình đẳng hình thức. Và một khi thực hiện được quyền bình đẳng của mọi thành viên trong xã hội đối với việc chiếm hữu tư liệu sản xuất, nghĩa là lao động ngang nhau, tiền công ngang nhau, thì liền sau đó nhân loại tất nhiên sẽ đứng trước vấn đề phải tiến thêm một bước mới để chuyển từ bình đẳng hình thức sang bình đẳng thực sự "(27).
Bằng thiên tài của mình, Lê-nin đã kế thừa xuất sắc những luận điểm chủ yếu của Mác để đi đến một tổng kết vô cùng độc đáo: “Vậy là, trong một thời gian nhất định, dưới chế độ cộng sản, không những vẫn còn pháp quyền tư sản, mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư sản nhưng không có giai cấp tư sản!”(28). Điều đáng quan tâm là vì sao phải có nhà nước kiểu tư sản? Lê-nin giải thích: “… nếu không có một bộ máy đủ sức cưỡng bức người ta tuân theo những tiêu chuẩn của pháp quyền thì pháp quyền có cũng như không” (28).
Sai lầm phổ biến của các nước XHCN trước đây là bệnh quan liêu, mất dân chủ. Nó là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu. Chúng ta không tìm thấy ở đó một kiểu nhà nước tư sản nào cả; không có dù chỉ là bóng dáng của pháp quyền tư sản!
Ngay những năm đầu của chính quyền Xô viết Lê-nin đã chỉ ra: “Toàn bộ công việc của tất cả các cơ quan kinh tế của chúng ta bị khốn khổ trước hết về quan liêu... Nếu cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó.”(29). Quan liêu sẽ dẫn đến tham nhũng, mà theo Lê-nin: “Nếu còn hối lộ được, thì cũng không thể nói đến chính trị được. Trong trường hợp này, thậm chí cũng không thể nói đến làm chính trị được, vì mọi biện pháp đều sẽ lơ lửng trên không trung, sẽ hoàn toàn không mang lại kết quả gì cả. Một đạo luật chỉ có thể đưa đến kết quả xấu hơn, nếu trên thực tiễn nó được đem áp dụng trong điều kiện nạn hối lộ còn được dung thứ và đang thịnh hành.”(30).
Ở Việt Nam, từ một xã hội quân chủ chuyên chế sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Nhân dân ta chỉ biết đến và được hưởng quyền dân chủ thật sự sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Tư tưởng dân chủ, tinh thần dân chủ là một trong những tinh hoa văn hóa mà Hồ Chí Minh đã tiếp thu trong quá trình tìm đường cứu nước. Nó là di sản văn hóa-chính trị đặc biệt quan trọng; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn mà chúng ta có trách nhiệm giữ gìn và phát huy trong sự nghiệp đổi mới. Đúng như Người nói: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”.
Khi học về tinh thần dân chủ của Bác, chúng ta thấy rõ sự thống nhất giữa tư tưởng với phương pháp và phong cách của Người. Lý luận gắn với thực tiễn, đề cao phương pháp thực hành dân chủ, phong cách dân chủ; kết hợp nhuần nhuyễn truyền thống với hiện đại. Trong đó nổi bật nhất là vấn đề nêu gương về thực hành và phát huy dân chủ. Người luôn coi dân chủ là phương pháp lãnh đạo và quản lý quan trọng hàng đầu cùng với sự gương mẫu của người lãnh đạo. Đây là một nét đặc sắc và vô cùng độc đáo. Người nói: "...thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn". Người phê phán hiện tượng một số cán bộ "Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối "quan" chủ. Miệng thì nói "phụng sự quần chúng" nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng”.
Theo Bác quan liêu “... là nguy cơ lớn nhất của đảng cầm quyền, là nguyên nhân của nhiều căn bệnh khác”. Quan liêu là do: “Xa nhân dân; khinh nhân dân; sợ nhân dân; không tin cậy nhân dân; không hiểu biết nhân dân; không yêu thương nhân dân”. Quan liêu là “kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta”…
Thực hiện chỉ dạy của Người, Đảng ta xác định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”.
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân… Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Điều 16 quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”.
Thực tế những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội…
Tuy nhiên, nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi. Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê-ghen” Mác cho rằng: “Dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại vì luật pháp, mà luật pháp tồn tại vì con người”(31).
Vì thế, Đại hội XII đã khẳng định phải: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta hướng tới xây dựng và hoàn thiện là nền dân chủ rộng rãi, mang tính toàn diện, được thực hiện thông qua hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, trước hết là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Nhà nước đó sẽ bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội. Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để nhanh chóng hoàn thành mục tiêu cao cả đó chúng ta càng khắc sâu và thực hiện tốt chỉ dạy của Bác Hồ: “… Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”./.
(1) C.Mác-Ph.Ăng-ghen Toàn tập,T4, NXB. CTQG, ST, HN–1995, tr.599.
(2) Sđd,T4,tr.601.
(3) Sđd,T4,tr.597.
(4) Sđd,T4,tr.610.
(5) Sđd,T4,tr.605.
(6) Sđd,T4,tr.611.
(7) Sđd,T4,tr.628.
(8) Sđd,T19,tr.36.
(9) Sđd,T19,tr.33.
(10) Sđd,T4,tr 626.
(11) Sđd,T4,tr615.
(12) V.I.Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, Mát-xcơ-va, 1978, t. 33, tr 32).
(13) Sđd, t.33,tr30.
(14) Sđd, t33, tr31.
(15) Sđd, T33,tr24.
(16) C.Mác-Ph.Ăng-ghen Toàn tập,T19, NXB. CTQG, ST, HN–1995, tr.34-35.
(17) V.I.Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, Mát-xcơ-va, 1978, t. 33,tr 15-16.
(18) C.Mác-Ph.Ăng-ghen Toàn tập,T19, NXB. CTQG, ST, HN–1995, tr.34-35.
(19) V.I.Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, Mát-xcơ-va, 1978, t. 33,tr 114.
(20) Sđd, T33,tr 123.
(21) Sđd, T33,tr 103.
(22) Sđd, T33,tr 87.
(23) Sđd, T33,tr 122.
(24) Sđd, T33,tr 107,108.
(25) Sđd, T33,tr 106,107.
(26) Sđd, T33,tr 206-207.
(27) Sđd, T33,tr 122.
(28) Sđd, T33,tr 121.
(29) Sđd, T54,tr 235.
(30) Sđd, T44,tr 218.
(31) C.Mác-Ph.Ăng-ghen Toàn tập,T1, NXB. CTQG, ST, HN–1995, tr.350.
Khác với xã hội phong kiến với nhiều tầng lớp, đẳng cấp. Xã hội tư bản chủ nghĩa đã: “… đơn giản hóa những đối kháng giai cấp. Xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản”(3). Các giai cấp đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà trước hết là sự phát triển nhanh chóng của đại công nghiệp. Giai cấp công nhân thì trái lại. Nó không ngừng lớn mạnh, bởi vì nó “là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”(4). Nếu đại công nghiệp là thứ vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư sản. Nhưng giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí để tiêu diệt mình; hơn thế nữa nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy, đó là những người vô sản (5).
Đặc điểm của phong trào vô sản: “là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số. Giai cấp vô sản, tầng lớp ở bên dưới nhất của xã hội hiện tại, không thể vùng dậy, vươn mình lên nếu không làm nổ tung toàn bộ cái thượng tầng kiến trúc bao gồm những tầng lớp cấu thành xã hội quan phương”(6).
Mác dự báo một cách đặc sắc: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”(7). Con người sẽ đi tới “vương quốc tự do”. Đó là một điều chắc chắn! Nhưng đó sẽ là xã hội của tương lai. Nó sẽ và chỉ xuất hiện: “khi mà lao động trở thành… một nhu cầu bậc nhất của đời sống; khi mà cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân, sức sản xuất của họ cũng ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào, - chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản”(8).
Năm 1875, Mác đã lý giải trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô-ta” về lý do mà con người chưa thể bước ngay vào “vương quốc tự do”, Mác viết: “Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra”(9).
Cách mạng vô sản là một quá trình lâu dài, gian khổ. Trong đó, “bước thứ nhất” cực kỳ quan trọng: “… là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”(10). Phải: “tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”(11).
Kế thừa quan điểm nói trên, Lê-nin đã giải thích: “Giai cấp vô sản cần có chính quyền nhà nước, cần có tổ chức sức mạnh tập trung, cần có tổ chức bạo lực để trấn áp sự phản kháng của bọn bóc lột và lãnh đạo quảng đại quần chúng nhân dân - nông dân, tiểu tư sản, nửa vô sản - trong công cuộc "tổ chức" nền kinh tế xã hội chủ nghĩa”(12). Ông còn nhấn mạnh rằng Mác có một định nghĩa tuyệt hay về nhà nước. Mác viết: "Nhà nước, tức là giai cấp vô sản được tổ chức thành giai cấp thống trị"(13). Lê-nin so sánh: “Các giai cấp bóc lột cần đến quyền thống trị chính trị để duy trì sự bóc lột, nghĩa là để bảo vệ quyền lợi ích kỷ của một thiểu số rất nhỏ bé, chống lại tuyệt đại đa số nhân dân. Các giai cấp bị bóc lột cần đến quyền thống trị chính trị để thủ tiêu hoàn toàn mọi sự bóc lột, nghĩa là để bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân chống lại thiểu số rất nhỏ những chủ nô hiện đại, tức là bọn địa chủ và bọn tư bản” (14).
Khi viết tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, Lê-nin khẳng định: Vấn đề Nhà nước bao giờ cũng là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Và đúng như Mác đã tổng kết cuộc cách mạng Pháp 1848 - 1851 trong tác phẩm Ngày mười tám tháng Sương mù của Lui Bô-na-pác: Các chính Đảng lần lượt nối gót nhau đấu tranh giành chính quyền, đều coi việc đoạt lấy tòa lâu đài Nhà nước đồ sộ kia là chiến lợi phẩm chủ yếu của kẻ chiến thắng. Nhưng khi nghiên cứu về nhà nước, nhất là vấn đề nhà nước “tiêu vong”, nhà nước kiểu mới của nhân dân lao động chúng ta phải hết sức chú ý về tính phức tạp của nó. Nó phức tạp đến mức mà theo Lê-nin 10.000 nghe hay đọc về nó thì có đến 9.990 người không nhớ, không biết. Và trong số 10 người còn lại thì chắc chắn có đến 9 người không hiểu (15).
Như đã nói ở trên, tại “bước thứ nhất” của cách mạng vô sản, từ thân phận bị áp bức, bóc lột, giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải đấu tranh “giành lấy dân chủ” mà trước kia chỉ thuộc về giai cấp tư sản, chủ yếu của tư sản. Đến khi cách mạng XHCN thắng lợi: Mọi người được giải phóng và có được quyền bình đẳng với địa vị ngang nhau. Dân chủ đã thuộc về đa số. Nhưng “… ở đây, về nguyên tắc, cái quyền ngang nhau cũng vẫn là cái quyền tư sản”(16). Nó vẫn chưa ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản (là pháp quyền xác nhận bất bình đẳng trong thực tế). Nó vẫn: “… dùng cùng một thước đo như nhau; song những cá nhân không ngang nhau”(16).
Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô-ta”, Mác đã phê phán Lát-xan về quan niệm coi nhà nước tư sản là “nhà nước siêu giai cấp” có thể biến thành “nhà nước nhân dân tự do” cùng với cái gọi là “phân phối công bằng”… Mác đã chứng minh tính chất “bình đẳng” nhưng “không ngang nhau” trong vấn đề tưởng như rất bình đẳng và công bằng, đó là vấn đề “phân phối theo lao động”.
Mác đã phân tích cụ thể là khi nhân dân lao động giành được chính quyền và khi có điều kiện thực hiện phân phối theo lao động, có nghĩa là mỗi người lao động có số lượng, chất lượng lao động ngang nhau thì tiền lương như nhau. Thoạt nhìn đó là nguyên tắc phân phối công bằng. Nhưng thực chất lại không công bằng. Sở dĩ như thế là do nó thực hiện bình đẳng trên tiền đề rất không bình đẳng, không công bằng: Mỗi người lao động có thể lực và trí lực không như nhau, hoàn cảnh gia đình (số lượng con cái…) không như nhau. Kết quả là: Thụ hưởng không ngang nhau. “Quyền ngang nhau ấy là một quyền không ngang nhau đối với một lao động không ngang nhau”(16).
Liên quan đến vấn đề này, Ăng-ghen cho đó là: “… một sự bất bình đẳng mà người ta có thể rút xuống mức tối thiểu, chứ không thể làm mất hẳn được… Quan niệm về xã hội chủ nghĩa như giang sơn của bình đẳng, là một quan niệm phiến diện…”(17). Quan trọng hơn, Mác còn chỉ ra nguyên nhân của hạn chế đó. Người viết: “… đó là những thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau những cơn đau đẻ dài. Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”(18); Lê-nin đã bổ sung, Người viết: “giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản chưa thể thực hiện được công bằng và bình đẳng: về mặt của cải, thì vẫn còn chênh lệch, mà những chênh lệch ấy là bất công” (19).
Đây là những kết luận vô cùng khoa học, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Thực tế, tất cả các nước XHCN đều phạm sai lầm trong vấn đề này. Tất cả đều đã thiết kế nhiều chủ trương, chính sách “ở một mức cao hơn” chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế cho phép. Vì muốn nhanh chóng có công bằng; chúng ta luôn muốn ai cũng có việc làm bằng cách bố trí nhiều người cho công việc chỉ cần một người! Kết quả: Ai cũng có việc làm, nhưng không ai làm việc đàng hoàng! Ai cũng có tiền lương, nhưng lương lại không đủ sống! Tiền lương không đủ sống nhưng mọi người lại tranh nhau vào khu vực “không đủ sống” vv…
Như vậy, cần hiểu đúng vấn đề dân chủ mà trước nhất là nền dân chủ tư sản. Lê-nin viết: “Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của nhà nước. Cho nên, cũng như mọi nhà nước, chế độ dân chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta. Một mặt thì như thế. Nhưng mặt khác chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận quyền bình đẳng giữa những công dân, thừa nhận cho mọi người được quyền ngang nhau trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà nước. Do đó, đến một trình độ phát triển nào đó, chế độ dân chủ trước hết đoàn kết được giai cấp vô sản, giai cấp cách mạng chống chủ nghĩa tư bản, và khiến cho giai cấp vô sản có thể phá tan, đập vụn, quét sạch khỏi mặt đất bộ máy nhà nước tư sản”(20). Lê-nin đã tổng kết: “Tất cả lý luận của Mác là một sự áp dụng học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức triệt để nhất, đầy đủ nhất, chín chắn nhất và có nội dung phong phú nhất, vào chủ nghĩa tư bản hiện đại”(21). Người còn nói: “…tư tưởng cơ bản như sợi chỉ đỏ xuyên qua tất cả các tác phẩm của Mác, tư tưởng đó là: chế độ cộng hòa dân chủ là con đường ngắn nhất đi đến chuyên chính vô sản” (22).
Chính vì thế, Lê-nin đã đánh giá: “Chế độ dân chủ (ý nói dân chủ tư sản) có một ý nghĩa lớn lao trong cuộc đấu tranh tự giải phóng của giai cấp công nhân chống bọn tư bản. Nhưng chế độ dân chủ hoàn toàn không phải là một giới hạn không thể vượt được, nó chỉ là một giai đoạn trên con đường từ chế độ phong kiến đến chủ nghĩa tư bản và từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa cộng sản”(23). Không được hạ thấp tính ưu việt của nền dân chủ tư sản. Phải nhận thức đầy đủ “vai trò hết sức cách mạng của giai cấp tư sản”. Nhưng nói đến dân chủ tư sản cũng cần hiểu rõ nó là: “Dân chủ cho một thiểu số rất nhỏ”(24); “một thứ dân chủ cắt xén, khốn khổ, giả dối”; nó “gạt bỏ người nghèo ra ngoài chính trị, không cho họ tham gia tích cực vào chế độ dân chủ”(24)… Nhưng đây là sự “gạt bỏ” rất tinh vi. Mác nói một cách châm biếm: “… người ta cho phép những người bị áp bức, cứ mấy năm một lần, lại được quyết định xem trong số đại biểu của giai cấp áp bức, người nào sẽ thay mặt họ và sẽ chà đạp lên họ ở nghị viện”(24)…
Mặt khác, cùng với đấu tranh chống chủ nghĩa giáo điều “coi thường những giá trị của CNTB”. Hiện nay cũng phải đề phòng và kiên quyết chống thứ “giáo điều mới”. Bởi nó luôn thổi phồng các giá trị của phương Tây đến mức “sùng bái”... Cần ghi nhớ nhận xét sau đây của Lê-nin: “Xã hội tư bản chủ nghĩa, xét trong những điều kiện phát triển thuận lợi nhất của nó, đem lại cho ta một chế độ dân chủ ít nhiều đầy đủ trong chế độ cộng hòa dân chủ. Nhưng chế độ dân chủ ấy bao giờ cũng bị bó trong khuôn khổ chật hẹp của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa và do đó, thực ra, nó luôn luôn là một chế độ dân chủ đối với một thiểu số, vẫn chỉ là một chế độ dân chủ đối với riêng những giai cấp có của, đối với riêng bọn giàu có mà thôi. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, tự do luôn luôn vẫn gần giống như tự do trong các nước cộng hòa Hy-lạp thời cổ: một thứ tự do cho chủ nô. Những người nô lệ làm thuê ngày nay, do sự bóc lột tư bản chủ nghĩa, nên bị cảnh thiếu thốn đói khổ đè nặng đến nỗi "không thiết gì đến dân chủ", "không thiết gì đến chính trị", và đến nỗi… đa số nhân dân đều bị gạt ra ngoài sinh hoạt chính trị - xã hội(25).
Tóm lại, điểm mấu chốt ở đây là phải nhận thức đúng tính chất lịch sử của phạm trù dân chủ. Mối quan hệ giữa “tự do” và “dân chủ”, giữa “dân chủ” và “bình đẳng”. Bởi như Lê-nin nhận xét: “Thường thường người ta đồng nhất khái niệm "tự do" và "dân chủ", và thường dùng thay thế cho nhau. Những người mác-xít tầm thường (đứng đầu là Cau-xky, Plê-kha-nốp và phe lũ) rất thường hay lập luận đúng như vậy. Thực ra dân chủ loại trừ tự do. Biện chứng (quá trình) của sự phát triển là: từ chuyên chế đến dân chủ tư sản; từ dân chủ tư sản đến dân chủ vô sản; từ dân chủ vô sản đến không còn dân chủ nữa”(26). Người còn nói:“Dân chủ nghĩa là bình đẳng. Rõ ràng là cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản để giành quyền bình đẳng và thực hiện khẩu hiệu bình đẳng có một ý nghĩa rất lớn, miễn là phải hiểu bình đẳng cho đúng, hiểu theo nghĩa xóa bỏ giai cấp. Nhưng dân chủ chỉ có nghĩa là bình đẳng hình thức. Và một khi thực hiện được quyền bình đẳng của mọi thành viên trong xã hội đối với việc chiếm hữu tư liệu sản xuất, nghĩa là lao động ngang nhau, tiền công ngang nhau, thì liền sau đó nhân loại tất nhiên sẽ đứng trước vấn đề phải tiến thêm một bước mới để chuyển từ bình đẳng hình thức sang bình đẳng thực sự "(27).
Bằng thiên tài của mình, Lê-nin đã kế thừa xuất sắc những luận điểm chủ yếu của Mác để đi đến một tổng kết vô cùng độc đáo: “Vậy là, trong một thời gian nhất định, dưới chế độ cộng sản, không những vẫn còn pháp quyền tư sản, mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư sản nhưng không có giai cấp tư sản!”(28). Điều đáng quan tâm là vì sao phải có nhà nước kiểu tư sản? Lê-nin giải thích: “… nếu không có một bộ máy đủ sức cưỡng bức người ta tuân theo những tiêu chuẩn của pháp quyền thì pháp quyền có cũng như không” (28).
Sai lầm phổ biến của các nước XHCN trước đây là bệnh quan liêu, mất dân chủ. Nó là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu. Chúng ta không tìm thấy ở đó một kiểu nhà nước tư sản nào cả; không có dù chỉ là bóng dáng của pháp quyền tư sản!
Ngay những năm đầu của chính quyền Xô viết Lê-nin đã chỉ ra: “Toàn bộ công việc của tất cả các cơ quan kinh tế của chúng ta bị khốn khổ trước hết về quan liêu... Nếu cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó.”(29). Quan liêu sẽ dẫn đến tham nhũng, mà theo Lê-nin: “Nếu còn hối lộ được, thì cũng không thể nói đến chính trị được. Trong trường hợp này, thậm chí cũng không thể nói đến làm chính trị được, vì mọi biện pháp đều sẽ lơ lửng trên không trung, sẽ hoàn toàn không mang lại kết quả gì cả. Một đạo luật chỉ có thể đưa đến kết quả xấu hơn, nếu trên thực tiễn nó được đem áp dụng trong điều kiện nạn hối lộ còn được dung thứ và đang thịnh hành.”(30).
Ở Việt Nam, từ một xã hội quân chủ chuyên chế sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Nhân dân ta chỉ biết đến và được hưởng quyền dân chủ thật sự sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Tư tưởng dân chủ, tinh thần dân chủ là một trong những tinh hoa văn hóa mà Hồ Chí Minh đã tiếp thu trong quá trình tìm đường cứu nước. Nó là di sản văn hóa-chính trị đặc biệt quan trọng; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn mà chúng ta có trách nhiệm giữ gìn và phát huy trong sự nghiệp đổi mới. Đúng như Người nói: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”.
Khi học về tinh thần dân chủ của Bác, chúng ta thấy rõ sự thống nhất giữa tư tưởng với phương pháp và phong cách của Người. Lý luận gắn với thực tiễn, đề cao phương pháp thực hành dân chủ, phong cách dân chủ; kết hợp nhuần nhuyễn truyền thống với hiện đại. Trong đó nổi bật nhất là vấn đề nêu gương về thực hành và phát huy dân chủ. Người luôn coi dân chủ là phương pháp lãnh đạo và quản lý quan trọng hàng đầu cùng với sự gương mẫu của người lãnh đạo. Đây là một nét đặc sắc và vô cùng độc đáo. Người nói: "...thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn". Người phê phán hiện tượng một số cán bộ "Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối "quan" chủ. Miệng thì nói "phụng sự quần chúng" nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng”.
Theo Bác quan liêu “... là nguy cơ lớn nhất của đảng cầm quyền, là nguyên nhân của nhiều căn bệnh khác”. Quan liêu là do: “Xa nhân dân; khinh nhân dân; sợ nhân dân; không tin cậy nhân dân; không hiểu biết nhân dân; không yêu thương nhân dân”. Quan liêu là “kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta”…
Thực hiện chỉ dạy của Người, Đảng ta xác định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”.
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân… Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Điều 16 quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”.
Thực tế những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội…
Tuy nhiên, nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi. Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê-ghen” Mác cho rằng: “Dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại vì luật pháp, mà luật pháp tồn tại vì con người”(31).
Vì thế, Đại hội XII đã khẳng định phải: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta hướng tới xây dựng và hoàn thiện là nền dân chủ rộng rãi, mang tính toàn diện, được thực hiện thông qua hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, trước hết là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Nhà nước đó sẽ bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội. Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để nhanh chóng hoàn thành mục tiêu cao cả đó chúng ta càng khắc sâu và thực hiện tốt chỉ dạy của Bác Hồ: “… Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”./.
(*) Từ “Phê phán cương lĩnh Gô-Ta” của Mác
đến “Nhà nước và cách mạng của Lê-nin”.
___________đến “Nhà nước và cách mạng của Lê-nin”.
(1) C.Mác-Ph.Ăng-ghen Toàn tập,T4, NXB. CTQG, ST, HN–1995, tr.599.
(2) Sđd,T4,tr.601.
(3) Sđd,T4,tr.597.
(4) Sđd,T4,tr.610.
(5) Sđd,T4,tr.605.
(6) Sđd,T4,tr.611.
(7) Sđd,T4,tr.628.
(8) Sđd,T19,tr.36.
(9) Sđd,T19,tr.33.
(10) Sđd,T4,tr 626.
(11) Sđd,T4,tr615.
(12) V.I.Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, Mát-xcơ-va, 1978, t. 33, tr 32).
(13) Sđd, t.33,tr30.
(14) Sđd, t33, tr31.
(15) Sđd, T33,tr24.
(16) C.Mác-Ph.Ăng-ghen Toàn tập,T19, NXB. CTQG, ST, HN–1995, tr.34-35.
(17) V.I.Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, Mát-xcơ-va, 1978, t. 33,tr 15-16.
(18) C.Mác-Ph.Ăng-ghen Toàn tập,T19, NXB. CTQG, ST, HN–1995, tr.34-35.
(19) V.I.Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, Mát-xcơ-va, 1978, t. 33,tr 114.
(20) Sđd, T33,tr 123.
(21) Sđd, T33,tr 103.
(22) Sđd, T33,tr 87.
(23) Sđd, T33,tr 122.
(24) Sđd, T33,tr 107,108.
(25) Sđd, T33,tr 106,107.
(26) Sđd, T33,tr 206-207.
(27) Sđd, T33,tr 122.
(28) Sđd, T33,tr 121.
(29) Sđd, T54,tr 235.
(30) Sđd, T44,tr 218.
(31) C.Mác-Ph.Ăng-ghen Toàn tập,T1, NXB. CTQG, ST, HN–1995, tr.350.